Anh hùng – Tintuctaichinh.net https://tintuctaichinh.net Trang thông tin tài chính Việt Nam Thu, 14 Aug 2025 13:13:31 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tintuctaichinh/2025/08/tintuctaichinh-favicon.svg Anh hùng – Tintuctaichinh.net https://tintuctaichinh.net 32 32 Tưởng nhớ những hồn thiêng 지키ing cõi biên thùy https://tintuctaichinh.net/tuong-nho-nhung-hon-thieng-%ec%a7%80%ed%82%a4ing-coi-bien-thuy/ Thu, 14 Aug 2025 13:13:28 +0000 https://tintuctaichinh.net/tuong-nho-nhung-hon-thieng-%ec%a7%80%ed%82%a4ing-coi-bien-thuy/

Ngày 17/2/1979 – một ngày bi hùng trong lịch sử bảo vệ biên giới của Việt Nam. Trên khắp các tuyến biên giới, từ miền núi cao phía Bắc đến rẻo đất cuối trời phương Nam, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ ưu tú của Công an nhân dân vũ trang (CANDVT) – Bộ đội Biên phòng (BĐBP) đã sẵn sàng xả thân cho Tổ quốc, dũng cảm chiến đấu, anh dũng hy sinh, hoặc mang thương tật suốt đời. Máu đào của các anh hùng, liệt sĩ đã tô thắm lá cờ cách mạng vẻ vang, để đất nước ta nở hoa độc lập, kết trái tự do.

Ông Giàng Cồ Sén trò chuyện với cán bộ Đồn Biên phòng Pha Long. Ảnh: Đăng Bảy
Ông Giàng Cồ Sén trò chuyện với cán bộ Đồn Biên phòng Pha Long. Ảnh: Đăng Bảy

Trong gần hai năm thực hiện cuốn sách ‘Những tượng đài bất tử trên biên giới’, tôi may mắn có dịp đến dâng hương tại tất cả các bia tưởng niệm liệt sĩ BĐBP trên cả nước. Mỗi nơi đi qua, mỗi tên người được khắc lại là một phần lịch sử máu lửa của dân tộc mà chúng ta không được lãng quên. Tại Đồn Biên phòng Phú Mỹ – Đồn CANDVT Phú Mỹ trước đây (thuộc tỉnh An Giang), đơn vị duy nhất trong toàn lực lượng có 100% cán bộ, chiến sĩ hy sinh, tôi đã đứng rất lâu như để gửi đến các anh lời tri ân từ thế hệ hôm nay…

Ngày 17/5/1978, sau nhiều đợt tấn công thất bại, quân Pol Pot điều 4 tiểu đoàn đánh thẳng vào Đồn CANDVT Phú Mỹ. Khi đã bắn đến viên đạn cuối cùng, cán bộ, chiến sĩ của đơn vị vẫn dũng cảm giương lê đánh giáp lá cà chứ quyết không hạ súng đầu hàng, không để kẻ địch bắt sống. Điều khiến tôi xúc động nhất là ở đâu cũng có nhiều người dân, các già làng, trưởng bản, cán bộ, chiến sĩ Biên phòng thuộc lòng từng cái tên trên bia mộ. Họ nhớ rõ từng trận đánh, từng chi tiết và gìn giữ những mẩu kỷ vật của các thế hệ đi trước như giữ một phần máu thịt của chính mình.

Hiện nay, trên cả nước có 136 đồn Biên phòng có cán bộ, chiến sĩ hy sinh qua các thời kỳ, với hơn 1.370 liệt sĩ. Trong đó, hơn 50 đồn và đơn vị Biên phòng đã xây dựng bia, nhà bia, đài tưởng niệm để mãi khắc ghi sự hy sinh, cống hiến to lớn của các anh hùng liệt sĩ – những người đã hiến dâng trọn đời mình cho từng tấc đất biên cương của Tổ quốc.

]]>
Hai anh em ruột tìm nơi hy sinh của anh trai trong rừng Quảng Trị https://tintuctaichinh.net/hai-anh-em-ruot-tim-noi-hy-sinh-cua-anh-trai-trong-rung-quang-tri/ Wed, 13 Aug 2025 21:12:21 +0000 https://tintuctaichinh.net/hai-anh-em-ruot-tim-noi-hy-sinh-cua-anh-trai-trong-rung-quang-tri/

Trong những ngày cuối tháng 6, khi nắng hè gay gắt đang đổ lửa xuống mặt đất, hai ông Phan Nho Thắng (67 tuổi) và Phan Thái Bình (61 tuổi, cùng trú tại xã Đức Thịnh, tỉnh Hà Tĩnh) đã lặn lội vào vùng rừng phía tây xã Cam Lộ (Quảng Trị). Mục đích của họ là đến nơi anh trai của họ, liệt sĩ Phan Văn Tần, từng chiến đấu và anh dũng hy sinh.

Ông Phan Nho Thắng - em trai liệt sĩ - thắp hương tại nghĩa trang liệt sĩ Cam Chính
Ông Phan Nho Thắng – em trai liệt sĩ – thắp hương tại nghĩa trang liệt sĩ Cam Chính
Lễ vật đầy đủ vật phẩm và giấy báo tử mang từ quê hương Hà Tĩnh vào chiến trường năm xưa
Lễ vật đầy đủ vật phẩm và giấy báo tử mang từ quê hương Hà Tĩnh vào chiến trường năm xưa

Ông Phan Thái Bình cho biết, gia đình ông đã muốn vào tìm kiếm anh trai từ lâu nhưng chưa có thông tin đầy đủ. “Anh hy sinh trong rừng, biết tìm lại hài cốt là khó nhưng chúng tôi vẫn vào”, ông Bình nói. Ba năm trước, gia đình ông Bình đã kết nối được với một số gia đình khác có liệt sĩ hy sinh trong cùng trận đánh này. Họ đã giữ liên lạc và chia sẻ thông tin về hành trình tìm kiếm.

Hai em trai của liệt sĩ Phan Văn Tần (từ trái sang: ông Phan Nho Thắng và Phan Thái Bình) thắp nhang tại khu vực anh mình hy sinh
Hai em trai của liệt sĩ Phan Văn Tần (từ trái sang: ông Phan Nho Thắng và Phan Thái Bình) thắp nhang tại khu vực anh mình hy sinh

Chiến địa năm xưa là cao điểm 597, nay nằm về phía tây của xã Cam Lộ. Sau hơn một giờ đi xe máy theo đường sản xuất lâm nghiệp, hai ông mất thêm 30 phút leo bộ lên đồi cao. Hành trang mang theo là dĩa cau trầu, trà rượu, hoa quả và giấy áo theo phong tục. Chọn điểm bằng phẳng đặt lễ vật, hai ông ngắt những nhánh hoa rừng để gửi đến các liệt sĩ.

Đi tìm hình bóng anh trai - Ảnh 9.
Đi tìm hình bóng anh trai – Ảnh 9.

Liệt sĩ Phan Văn Tần đã tham gia chiến đấu và anh dũng hy sinh tại đây vào ngày 16-6-1971, sau ba năm nhập ngũ. Cùng tham gia trận đánh này còn có nhiều liệt sĩ khác, và cùng chung một tâm nguyện của các gia đình cho đến nay chưa thành hiện thực: đó là tìm thấy hài cốt liệt sĩ.

Lá thư viết vội gửi đên các anh hùng liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc
Lá thư viết vội gửi đên các anh hùng liệt sĩ hy sinh vì Tổ quốc

Tại khu vực này, từ thông tin các cựu chiến binh, lực lượng quân sự tỉnh Quảng Trị đã nhiều lần tìm kiếm nhưng chưa có kết quả. Ông Bình cho biết gia đình vẫn tiếp tục hành trình tìm kiếm anh trai khi có thêm thông tin mới.

Hái cánh hoa rừng viếng anh linh các anh hùng liệt sĩ ở cao điểm 597 năm xưa
Hái cánh hoa rừng viếng anh linh các anh hùng liệt sĩ ở cao điểm 597 năm xưa

Điểm cao 597 và khu vực xung quanh hiện trở thành rừng sản xuất của người địa phương. Lấp ló sau các quả đồi là các trụ điện và đường dây 500kV. Giữa màu xanh của rừng và ánh sáng của dòng điện hôm nay là máu xương của những người đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Dưới chân cao điểm 597
Dưới chân cao điểm 597

Câu chuyện của hai ông Phan Nho Thắng và Phan Thái Bình là một trong nhiều câu chuyện về các gia đình liệt sĩ đang tìm kiếm hài cốt của người thân. Hành trình tìm kiếm này không chỉ là về việc tìm thấy hài cốt, mà còn là về việc kết nối quá khứ và tôn vinh những người đã ngã xuống vì Tổ quốc.

Cao điểm 597 là khu vực trận đánh năm 1971
Cao điểm 597 là khu vực trận đánh năm 1971
]]>
Thế hệ hôm nay viết tiếp câu chuyện hòa bình từ Côn Đảo https://tintuctaichinh.net/the-he-hom-nay-viet-tiep-cau-chuyen-hoa-binh-tu-con-dao/ Wed, 13 Aug 2025 09:27:30 +0000 https://tintuctaichinh.net/the-he-hom-nay-viet-tiep-cau-chuyen-hoa-binh-tu-con-dao/

Côn Đảo – Một Nơi Thiêng Liêng Của Lòng Yêu Nước

Là một nhà báo, tôi đã có cơ hội đến thăm nhiều địa danh lịch sử, nhưng Côn Đảo luôn là một nơi đặc biệt. Nơi đây không cần đến lời giới thiệu hay sắc màu tô điểm để trở nên linh thiêng. Chỉ cần một bước chân đặt xuống, một làn gió biển mặn mòi thoảng qua, là đã thấy lòng trùng xuống, tim nhói lên một niềm kính phục và biết ơn vô hạn. Côn Đảo là nơi từng tấc đất, từng nắm cát, từng con sóng cũng mang trong mình một câu chuyện bi hùng về lòng yêu nước, sự hy sinh và niềm tin son sắt vào ngày mai hòa bình.

Ngày 26/7, tôi có cơ hội đặt chân lên đặc khu thiêng liêng này để tham dự Lễ tri ân các anh hùng, liệt sĩ tại Côn Đảo. Cùng hàng trăm đại biểu, người dân, cựu chiến binh và những người con xa xứ trở về, chúng tôi đã dâng nén hương thành kính tại Nghĩa trang Hàng Keo, Nghĩa trang Hàng Dương, những nơi được xem là “bàn thờ Tổ quốc” giữa biển khơi. Không thể diễn tả được cảm xúc của tôi lúc đứng lặng lẽ nghiêng mình trước những ngôi mộ – phần lớn là chưa biết tên – những người con ưu tú của đất mẹ đã ngã xuống trong bóng tối của ngục tù, trong nỗi đau không tên, để góp phần cho ánh sáng tự do được thắp lên cho hôm nay.

Những nén nhang, ngọn nến bập bùng trong gió như là hơi thở của quá khứ vọng về, nhắc nhở chúng ta rằng, để có được những ngày bình yên này, máu xương đã từng đổ xuống biết bao nhiêu. Khi ánh chiều buông xuống, tôi cảm nhận như đất trời lặng im để lắng nghe lời tri ân, để chứng kiến sự tiếp nối thiêng liêng giữa các thế hệ. Những giọt nước mắt âm thầm rơi xuống không chỉ là của nỗi đau, mà còn là của lòng biết ơn và niềm tự hào vô hạn. Bởi vì trong nơi tưởng như là chốn tận cùng ấy, lại chính là điểm khởi đầu của những điều cao cả nhất – tình yêu đất nước, lòng hy sinh vô điều kiện, và khát vọng độc lập, tự do.

Đêm xuống, tôi tham dự chương trình nghệ thuật “Côn Đảo – Bản hùng ca bất tử” – một khúc tráng ca không chỉ kể về quá khứ mà còn lay động trái tim từng người bằng sức mạnh của nghệ thuật, của âm nhạc, của những ký ức chưa bao giờ nguôi ngoai trong tâm thức dân tộc. Dưới vòm trời đầy sao, tiếng nhạc vang lên như tiếng vọng của những linh hồn anh hùng đang trở về.

Tôi đặc biệt xúc động với ca khúc “Viết tiếp câu chuyện hòa bình”, một bài hát không quá ồn ào, nhưng từng câu từng chữ lại đào sâu vào ký ức, gọi dậy bao hình ảnh hào hùng: “Cha ông ta ngày xưa ngã xuống, để cho đời ta ngày sau đổi lấy hòa bình. Giữa khói binh ai cũng nguyện lòng hy sinh… Để cho đất nước yên vui từ đó. Để cho đỏ thắm màu cờ tự do. Để những tiếng cười vang khắp nơi từ ngày chiến thắng”.

Tôi đã nghe nhiều bản hùng ca về chiến tranh, về sự hy sinh và hòa bình. Nhưng lần này, giữa không gian thiêng liêng Côn Đảo, nơi hàng vạn chiến sĩ cách mạng từng bị giam cầm, tra tấn và hy sinh, những câu hát ấy bỗng mang một chiều sâu đặc biệt. Đó không còn là ca từ – mà là lời nhắn gửi từ quá khứ, là nhịp đập của lịch sử vọng về hiện tại.

Côn Đảo không chỉ là một địa danh. Côn Đảo là ký ức, là biểu tượng, là chứng nhân. Côn Đảo là nơi lưu giữ những nỗi đau tận cùng nhưng cũng là nơi phát ra ánh sáng rực rỡ nhất của tinh thần bất khuất, nơi “tử vì sinh, mất vì còn, chịu đựng để chiến thắng”.

Tôi xúc động khi nghĩ về những người tù không án – những người dám đứng lên vì lý tưởng cao cả dù biết rằng con đường phía trước là bóng tối nhà tù, là roi vọt, là đòn tra tấn, và có thể là cái chết không tên, không tuổi. Tôi nghĩ về những nữ chiến sĩ kiên cường nơi “chuồng cọp” Côn Đảo, nơi họ vẫn giữ trọn khí tiết, vẫn hát giữa đau thương, vẫn tin vào ngày mai.

Và tôi cũng nghĩ đến những người trẻ hôm nay – thế hệ sinh ra trong hòa bình, lớn lên trong nhịp sống sôi động và tự do. Liệu chúng ta đã hiểu hết giá trị của hòa bình, của độc lập? Liệu chúng ta có đang viết tiếp câu chuyện của cha ông bằng hành động thiết thực, bằng ý chí vươn lên, bằng khát vọng xây dựng đất nước hùng cường?

Đi giữa đêm Côn Đảo, tôi thấy những ngọn nến nhỏ được đặt trước mỗi phần mộ. Ánh nến lung linh soi rọi khuôn mặt trầm ngâm của những người đến viếng. Mỗi ngọn nến như là một lời hứa âm thầm – rằng chúng tôi sẽ không quên, sẽ sống xứng đáng, sẽ tiếp tục hành trình mà các anh, các chị đã khởi đầu bằng máu và nước mắt.

Nơi đây, thời gian dường như ngưng đọng. Sự ồn ào của thế giới hiện đại bị để lại phía sau cánh cổng nghĩa trang. Ở đây, chỉ có tiếng gió biển thổi qua rừng dương, tiếng lá cây xào xạc như lời thì thầm của những linh hồn bất tử. Ở đây, tôi cảm thấy sự gần gũi với lịch sử hơn bao giờ hết – không phải qua sách vở, mà qua chính từng bước chân, từng nhịp tim, từng giọt nước mắt lặng lẽ.

Tôi xúc động đặc biệt khi được trò chuyện với một nữ cựu tù chính trị năm xưa, nay đã ngoài 80 tuổi nhưng vẫn giữ nét cương nghị của một thời không khuất phục. Cô kể lại những ngày tháng bị biệt giam trong phòng tối, chỉ có tiếng rít của roi điện và tiếng gió biển rít qua song sắt làm bạn. Cô kể, bằng giọng đều đều, không một lời oán trách, rằng những người con gái tuổi đôi mươi năm ấy đã cắn răng chịu đựng mọi cực hình chỉ để giữ lại một điều: lòng tin. “Chúng tôi không sợ chết, chỉ sợ Tổ quốc không độc lập” cô nói, mắt nhìn xa xăm về phía Nghĩa trang Hàng Dương.

Tôi lặng đi. Trong đôi mắt già nua ấy không chỉ là nỗi đau, mà là ánh sáng của tự do. Sự kiên cường của những người phụ nữ như cô không chỉ là biểu tượng, mà là minh chứng sống cho sức mạnh tinh thần Việt Nam. Tôi nghĩ, nếu ai đó hỏi đâu là sức mạnh mềm lớn nhất của dân tộc ta, thì chính là những con người như cô – những người đã biến đau thương thành khí phách, và biến tù ngục thành biểu tượng bất khuất.

Nghe cô nói, tôi nghĩ rằng thế hệ hôm nay có một trách nhiệm thiêng liêng: ghi nhớ và tri ân. Tri ân không chỉ là những bông hoa, nén hương vào mỗi dịp 27/7, mà còn là sự nỗ lực không ngừng trong hiện tại – xây dựng một đất nước giàu mạnh, một xã hội công bằng, một tương lai đáng sống cho mọi người dân.

Tôi tin rằng, chính từ những nơi như Côn Đảo – nơi thử thách con người đến tận cùng – đã sinh ra những giá trị vĩnh cửu. Ở đây, tôi không chỉ thấy cái chết, mà thấy sự sống vĩnh hằng của lòng yêu nước. Tôi không chỉ thấy ngục tù, mà thấy niềm tin mãnh liệt vào một ngày mai.

]]>