Doanh nghiệp nhà nước – Tintuctaichinh.net https://tintuctaichinh.net Trang thông tin tài chính Việt Nam Fri, 12 Sep 2025 23:12:53 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tintuctaichinh/2025/08/tintuctaichinh-favicon.svg Doanh nghiệp nhà nước – Tintuctaichinh.net https://tintuctaichinh.net 32 32 Doanh nghiệp Nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng cao, thách thức lớn phía trước https://tintuctaichinh.net/doanh-nghiep-nha-nuoc-dat-muc-tieu-tang-truong-cao-thach-thuc-lon-phia-truoc/ Fri, 12 Sep 2025 23:12:49 +0000 https://tintuctaichinh.net/doanh-nghiep-nha-nuoc-dat-muc-tieu-tang-truong-cao-thach-thuc-lon-phia-truoc/

Nhiều tập đoàn và tổng công ty nhà nước đã đặt mục tiêu tăng trưởng ấn tượng cho năm nay, với một số đơn vị kỳ vọng đạt mức tăng trưởng hai con số. Tại Hội nghị Đánh giá công tác 6 tháng đầu năm và phương hướng, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025 của các doanh nghiệp do Bộ Tài chính làm cơ quan đại diện chủ sở hữu, các lãnh đạo tập đoàn và tổng công ty đã thể hiện quyết tâm cao.

Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng quốc gia Việt Nam (PVN) đã xây dựng kế hoạch kinh doanh hoàn chỉnh để đảm bảo đạt mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025. Tuy nhiên, với mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế năm nay là 8,3 – 8,5%, PVN đã điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng lên 11%. Ông Lê Mạnh Hùng, Chủ tịch Hội đồng Thành viên PVN, cho biết doanh nghiệp sẽ nỗ lực tìm kiếm các cơ hội và giải pháp để đạt được chỉ tiêu mới.

Tương tự, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) cũng điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng từ 8% lên 10% trong năm 2025. Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (VNR) đề xuất nâng tốc độ tăng trưởng doanh thu lên 9%. Các doanh nghiệp khác như Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) cũng được đề nghị mức tăng trưởng doanh thu hoặc sản lượng trên 10%.

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, các doanh nghiệp sẽ phải rà soát và cân đối lại các kịch bản tăng trưởng đã hoàn thiện trước đó. Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng yêu cầu các doanh nghiệp phải chủ động trong đánh giá thị trường, có giải pháp mở rộng thị trường, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, và chủ động ứng phó với các rào cản thương mại mới.

Bộ trưởng cũng cam kết sẽ không chậm trễ trong tháo gỡ các vướng mắc, khó khăn của doanh nghiệp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh và giải ngân vốn đầu tư. Ông yêu cầu các cục, vụ, viện tập trung rà soát các kiến nghị của doanh nghiệp và có phương án xử lý, tham mưu nhanh nhất.

Kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm của các doanh nghiệp nhà nước cho thấy nhiều điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng. Các chỉ tiêu sản lượng chủ yếu ước đạt 50 – 60% kế hoạch năm, trong đó một số lĩnh vực ghi nhận mức tăng trưởng 5 – 15% so với cùng kỳ. Với sự quyết tâm của các doanh nghiệp và sự hỗ trợ của Bộ Tài chính, mục tiêu tăng trưởng 8,3 – 8,5% của nền kinh tế trong năm nay có thể được đạt được.

]]>
Petrovietnam: Tổ chức Đảng vững mạnh, dẫn lối thành công https://tintuctaichinh.net/petrovietnam-to-chuc-dang-vung-manh-dan-loi-thanh-cong/ Mon, 08 Sep 2025 12:44:13 +0000 https://tintuctaichinh.net/petrovietnam-to-chuc-dang-vung-manh-dan-loi-thanh-cong/

Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) hiện là một điển hình về xây dựng Đảng vững mạnh và hoạt động hiệu quả trong khối doanh nghiệp nhà nước. Toàn thể cán bộ, đảng viên của tập đoàn đang tích cực thi đua chào mừng Đại hội Đảng bộ Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia Việt Nam lần thứ IV.

Lễ gắn biển công trình, sản phẩm chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Petrovietnam lần thứ IV, nhiệm kỳ 2025-2030.
Lễ gắn biển công trình, sản phẩm chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ Petrovietnam lần thứ IV, nhiệm kỳ 2025-2030.

Việc triển khai Quy định số 60-QĐ/TW của Ban Bí thư về tổ chức Đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã giúp Petrovietnam xây dựng hệ thống chính trị đồng bộ, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, thống nhất. Từ đó, tập đoàn đã nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đóng góp quan trọng cho sự nghiệp phát triển đất nước.

Ngay sau khi Quy định số 60-QĐ/TW được ban hành, Đảng ủy Petrovietnam đã chủ động triển khai nghiêm túc, đồng bộ trong toàn hệ thống. Đảng bộ Petrovietnam được tổ chức theo mô hình 4 cấp, với Đảng bộ toàn Tập đoàn là tổ chức cấp trên cơ sở, định hướng và bao quát hoạt động của hơn 940 tổ chức đảng cơ sở, với hơn 13.800 đảng viên đang sinh hoạt tại các đơn vị thành viên.

Mô hình tổ chức đảng phù hợp với cơ cấu quản trị ‘Tập đoàn – công ty con – liên doanh/liên kết’, đảm bảo sự lãnh đạo xuyên suốt từ trên xuống dưới, thuận lợi cho việc quản lý, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và phát triển doanh nghiệp. Đặc biệt, Petrovietnam đang định hướng phát triển trên ba trụ cột chiến lược: năng lượng, công nghiệp và dịch vụ – trong đó, năng lượng giữ vai trò nòng cốt, đảm bảo sự tương hỗ toàn diện.

Một trong những điểm nổi bật của mô hình Đảng bộ toàn Tập đoàn là việc Bí thư Đảng ủy đồng thời là Chủ tịch hoặc Tổng Giám đốc, giúp nâng cao vai trò lãnh đạo, tăng cường trách nhiệm và đảm bảo sự đồng bộ giữa lãnh đạo chính trị và điều hành doanh nghiệp.

Đảng ủy Petrovietnam chú trọng công tác cán bộ, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo nhân sự gắn liền với chiến lược phát triển ngành. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ các cấp được lựa chọn kỹ lưỡng, bảo đảm đủ phẩm chất, năng lực, tinh thần đổi mới sáng tạo. Công tác phát triển cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số cũng được triển khai có hiệu quả, góp phần làm phong phú và bền vững nguồn lực lãnh đạo trong dài hạn.

Từ năm 2010 đến nay, Petrovietnam đã thành lập mới 25 tổ chức cơ sở đảng, chuyển đổi 57 mô hình chi/đảng bộ, và tiếp nhận hơn 30 tổ chức từ các đơn vị có vốn góp. Tỷ lệ tổ chức đảng đạt danh hiệu ‘trong sạch, vững mạnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ’ luôn duy trì ở mức 36–45% trong ba nhiệm kỳ gần đây.

Bên cạnh đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng được chú trọng, chất lượng sinh hoạt chi bộ không ngừng được nâng cao. Cấp ủy các cấp bám sát diễn biến tư tưởng đảng viên, qua đó kịp thời định hướng dư luận, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên.

Petrovietnam còn đẩy mạnh phối hợp với các địa phương có đơn vị trực thuộc, ký kết quy chế hợp tác với 7 tỉnh, thành ủy, góp phần nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh trên địa bàn.

Thực tiễn gần 17 năm hoạt động cho thấy, mô hình Đảng bộ toàn Tập đoàn theo Quy định 60-QĐ/TW đã giúp nâng cao rõ rệt năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng trong doanh nghiệp. Không chỉ bảo đảm tính thống nhất trong định hướng phát triển, Tổ chức Đảng còn trở thành trung tâm đoàn kết, sáng tạo, hỗ trợ các đơn vị thành viên phối hợp chặt chẽ, tận dụng hiệu quả nguồn lực trong tái cấu trúc, xử lý khủng hoảng, đầu tư chiến lược, chuyển dịch năng lượng và xây dựng văn hóa doanh nghiệp.

Petrovietnam không chỉ là đơn vị chủ lực trong bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, mà còn góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững chủ quyền biển đảo, đảm bảo an sinh xã hội. Thành công của Petrovietnam trong việc xây dựng tổ chức đảng đồng bộ, nhất quán từ trung ương đến cơ sở là một minh chứng sinh động cho hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong các doanh nghiệp nhà nước.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển dịch năng lượng ngày càng mạnh mẽ, việc duy trì tổ chức Đảng bộ toàn Tập đoàn với vai trò lãnh đạo toàn diện càng trở nên quan trọng, giúp Petrovietnam tiếp tục vững bước là lực lượng tiên phong trong ngành công nghiệp năng lượng; đồng thời là hình mẫu về tổ chức đảng trong các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay.

]]>
Đề xuất thuế căn nhà thứ hai để hạ nhiệt giá bất động sản https://tintuctaichinh.net/de-xuat-thue-can-nha-thu-hai-de-ha-nhiet-gia-bat-dong-san/ Mon, 28 Jul 2025 11:48:42 +0000 https://tintuctaichinh.net/de-xuat-thue-can-nha-thu-hai-de-ha-nhiet-gia-bat-dong-san/

Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) vừa kiến nghị gửi tới Chính phủ và các bộ ngành liên quan về các vấn đề kinh tế đang được quan tâm hiện nay. Trong đó, đổi mới mô hình tăng trưởng để tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế là một trong năm vấn đề được NEU đề cập đến.

Cụ thể, các chuyên gia của NEU cho rằng, bên cạnh các giải pháp như tinh giảm hệ thống doanh nghiệp nhà nước và nâng cao chất lượng thể chế, tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống cũng là yếu tố quan trọng.

Theo đó, Việt Nam nên cân nhắc đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ và găm giữ bất động sản. Đây là nguyên nhân khiến tình trạng ‘đô thị ma’ xuất hiện, kéo theo sự khan hiếm nguồn cung trên thị trường thứ cấp. NEU đánh giá, khi chi phí sở hữu căn nhà thứ hai tăng lên do thuế, những chủ thể găm giữ sẽ có xu hướng sử dụng hiệu quả hơn bằng cách buộc phải bán bớt hoặc cho thuê, hoặc đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó, giúp tăng nguồn cung và góp phần hạ nhiệt giá nhà trên thị trường, từ đó hỗ trợ thị trường bất động sản trở nên lành mạnh cũng như tránh lãng phí tài nguyên.

Thứ hai, sửa đổi/cắt giảm gánh nặng thuế thu nhập cá nhân nên được thực hiện trong bối cảnh căng thẳng thương mại gia tăng và đối mặt với nguy cơ các quốc gia như Mỹ áp đặt thuế quan cao. Theo các nhà nghiên cứu, mức giảm trừ gia cảnh chậm được điều chỉnh, không theo kịp lạm phát và chi phí sinh hoạt thực tế, cũng như bậc thuế quá sát nhau khiến nhiều người dân, đặc biệt là tầng lớp trung lưu và thu nhập thấp phải chịu thuế ở mức cao ngay cả khi thu nhập chỉ vừa đủ để trang trải cuộc sống. Chính vì vậy, nếu điều chỉnh giảm sắc thuế này sẽ giúp tăng thu nhập khả dụng cho người dân, từ đó khuyến khích người dân tăng chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ trong nước và bù đắp một phần sụt giảm từ hoạt động xuất khẩu.

Thứ ba, Việt Nam nên áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp xuất khẩu. Nhóm nghiên cứu NEU đánh giá đây là một công cụ hiệu quả để phát triển công nghiệp phụ trợ và tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các biến động thương mại toàn cầu. Thông qua việc chủ động nguồn cung trong nước, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ giảm thiểu được rủi ro bị ảnh hưởng từ các chính sách thương mại quốc tế bất lợi, đảm bảo tính ổn định và bền vững cho hoạt động xuất khẩu.

Năm chủ đề được các chuyên gia NEU kiến nghị lên Chính phủ bao gồm: (i) Đổi mới mô hình tăng trưởng kết hợp cải cách thể chế nhằm tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế; (ii) Hoàn thiện tư duy và cách thức nhìn nhận khu vực kinh tế tư nhân; (iii) Cải thiện chất lượng đầu tư công hướng tới mục tiêu tăng trưởng trung hạn; (iv) Tăng cường phát triển nền kinh tế số và kinh tế xanh và (v) Phát triển các vùng kinh tế động lực nhằm tạo đà cho tăng trưởng kinh tế.

Cũng tại bản kiến nghị, nhóm nghiên cứu NEU nhận định, từ năm 2011 đến nay, so với các khu vực kinh tế khác, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam còn tồn tại 3 hạn chế bao gồm: (i) có hiệu quả kinh doanh thấp nhất; (ii) có trình độ khoa học công nghệ thấp nhất và (iii) thu nhập của người lao động thấp nhất. Đối mặt với thực trạng khu vực kinh tế tư nhân đang có biểu hiện ‘chững lại’ về mặt tốc độ, nhóm nghiên cứu đề xuất Chính phủ cần hoàn thiện chính sách thuế bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân so với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI.

Thứ nhất, cần thực hiện nhanh chóng áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu. Theo các nhà khoa học NEU, mức thuế thu nhập doanh nghiệp phổ biến ở Việt Nam hiện nay là 20%. Tuy nhiên, thông qua các chính sách ưu đãi, khu vực FDI được hưởng mức thuế suất trung bình vào khoảng 12%, đồng nghĩa chênh lệch khoảng 2,7% so với thuế tối thiểu toàn cầu.

Thứ hai, phải giải quyết hợp lý vấn đề liên quan đến chuyển giá của các doanh nghiệp FDI. Theo đó, cần ngăn chặn hiện tượng các doanh nghiệp FDI hoạt động kinh doanh có lãi tại Việt Nam nhưng tìm cách chuyển thành chi phí nguyên nhiên vật liệu, thiết bị, tài sản trí tuệ, dịch vụ nhập khẩu với giá khá cao. Trong đó, người xuất khẩu chính là công ty mẹ ở nước ngoài để có được khoản thu lời lớn.

Cuối cùng, xóa bỏ tình trạng trốn thuế của các doanh nghiệp FDI thông qua chính sách chuyển giá bất hợp lý. Nhóm nghiên cứu NEU cho rằng cơ quan chức năng cần nghiên cứu áp dụng các biện pháp phòng chống trốn và tránh thuế đang áp dụng tại các nước tiên tiến để giải quyết vấn đề trên.

Từ năm 2011 đến nay, lợi nhuận trước thuế bình quân của một doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng 0,52% của doanh nghiệp nhà nước và gần 3,1% của doanh nghiệp FDI, đồng thời năng suất lao động chỉ bằng 34% năng suất lao động của khu vực doanh nghiệp nhà nước và khoảng 69% năng suất lao động của khu vực FDI. Bên cạnh đó, theo số liệu từ Cục Thống kê (2023), nếu xét các doanh nghiệp chế biến chế tạo khu vực tư nhân hiện nay, tỷ lệ sử dụng công nghệ lần lượt là 12%, 23% và 56% (cao, trung bình và thấp). Ngoài ra, thu nhập bình quân của người lao động doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng 57,1% doanh nghiệp nhà nước, 78,4% doanh nghiệp FDI.

]]>
Kiểm toán Nhà nước chỉ rõ nhiều vi phạm trong quản lý vốn nhà nước https://tintuctaichinh.net/kiem-toan-nha-nuoc-chi-ro-nhieu-vi-pham-trong-quan-ly-von-nha-nuoc/ Thu, 24 Jul 2025 10:03:45 +0000 https://tintuctaichinh.net/kiem-toan-nha-nuoc-chi-ro-nhieu-vi-pham-trong-quan-ly-von-nha-nuoc/

Kết quả kiểm toán doanh nghiệp nhà nước cho thấy nhiều tập đoàn, tổng công ty có khoản lỗ lớn, trong khi một số đơn vị đạt tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu trên 10%, thậm chí vượt 20%. Tuy nhiên, việc quản lý và sử dụng vốn, tài sản của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.

Theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước, 9/9 tập đoàn, tổng công ty được kiểm tra đều có lãi, nhưng phần lớn các đơn vị còn sai sót trong công tác hạch toán, kê khai nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Qua kiểm toán, điều chỉnh tài sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí. Một số đơn vị chưa xây dựng quy chế quản lý tiền, quản lý dòng tiền chưa hiệu quả. Việc quản lý nợ chưa chặt chẽ, còn phát sinh nợ phải thu quá hạn, khó đòi lớn.

Kết quả kiểm toán cũng cho thấy một số đơn vị đầu tư tài chính hiệu quả chưa cao, hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ. Cụ thể, Công ty mẹ – TKV có 4 khoản đầu tư vào công ty con có lỗ lũy kế tại thời điểm 31/12/2023 là hơn 412 tỷ đồng. Vốn góp của công ty mẹ là hơn 1.759 tỷ đồng. Tổng công ty khoáng sản TKV có 1 khoản đầu tư không bảo toàn vốn và 3 khoản đầu tư vào công ty con chưa chia cổ tức do lợi nhuận sau phân phối không đủ chia cổ tức hoặc có lãi nhưng còn lỗ lũy kế.

Công ty mẹ – HUD có Công ty CP Đầu tư xây dựng đô thị Việt Nam lỗ lũy kế 14,4 tỷ đồng… Nhiều khoản đầu tư của tập đoàn, tổng công ty vào công ty liên doanh, liên kết, đầu tư dài hạn khác bị thua lỗ. Cụ thể, Công ty mẹ – Vinapharm có CTCP Dược phẩm Trung ương 2 ghi nhận lỗ lũy kế hơn 122 tỷ đồng tính đến 31/12/2023. CTCP Dược Davina lỗ 18,39 tỷ đồng.

Công ty mẹ – HUD có CTCP Sài Gòn – Rạch Giá lỗ lũy kế gần 124,5 tỷ đồng. CTCP Khách sạn và du lịch Bảo Việt lỗ hơn 73 tỷ đồng. Công ty mẹ – Vinataba có 3/6 công ty liên doanh, liên kết lỗ lũy kế 225,6 tỷ đồng và một khoản đầu tư dài hạn khác là 13,18 tỷ đồng.

Tổng công ty Sonadezi có CTCP Cấp nước Đồng Nai đầu tư góp vốn vào CTCP Cấp nước Gia Tân 50 tỷ đồng. Chiếm 10,47% vốn điều lệ, phải trích lập dự phòng 16,47 tỷ đồng. Công ty mẹ Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) có một khoản đầu tư phải trích lập dự phòng 100% tương ứng 55,87 tỷ đồng.

Ngoài ra, kết quả kiểm toán Chuyên đề việc thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu theo quy định Nghị định số 10/2019/NĐ-CP giai đoạn 2022-2023 tại Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (UBQLVNN) cho thấy, đến tháng 8/2024 còn 3/19 đề án cơ cấu lại doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025. Hai/19 kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư giai đoạn 2021-2025 và 4/19 chiến lược phát triển của các doanh nghiệp chưa được phê duyệt.

Có đến 10/12 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chưa được đánh giá, xếp loại năm 2023 và 1 doanh nghiệp chưa được đánh giá, xếp loại năm 2022. Chưa hoàn thành phê duyệt quyết toán cổ phần hóa theo quy định.

Đáng chú ý, theo báo cáo tài chính năm 2023 của các đơn vị, lỗ lũy kế tại ngày 31/12/2023 của Tổng công ty Cà phê Việt Nam là 738,8 tỷ đồng. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) lỗ lũy kế 50.611 tỷ đồng. Tập đoàn Hoá chất Việt Nam lỗ lũy kế 884,39 tỷ đồng.

Kết quả kiểm toán chuyên đề tại Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) cũng cho thấy, SCIC đã thoái vốn tại 37/77 doanh nghiệp với tổng giá vốn là 2.801/12.821 tỷ đồng. Bằng 21,8% kế hoạch 5 năm trong giai đoạn 2021-2023. SCIC đã bán hết vốn tại 50 doanh nghiệp nhưng chưa thu hồi hết cổ tức, lợi nhuận được chia 23,8 tỷ đồng.

Ngoài ra, quá trình bán vốn còn trường hợp xác định giá trị quyền sử dụng đất để tính giá trị vốn nhà nước không đúng quy định hoặc đơn vị tư vấn xác định chưa đầy đủ giá trị vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp.

Một số khoản SCIC trực tiếp đầu tư cũng không hiệu quả. Khi có 3/14 doanh nghiệp lỗ lũy kế tại ngày 31/12/2023 là 32.581,9 tỷ đồng; 2/14 doanh nghiệp không chia cổ tức, lợi nhuận trong giai đoạn 2019-2023.

SCIC chưa hoàn tất cổ phần hóa tại một số đơn vị. Chưa tiếp nhận đầy đủ quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 5 doanh nghiệp do hai bộ bàn giao; chưa xây dựng kế hoạch và giải pháp thực hiện tái cơ cấu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tại một số doanh nghiệp tiếp nhận.

Đến 31/12/2023, SCIC chưa phê duyệt chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển 5 năm giai đoạn 2021-2025 của 4/4 doanh nghiệp do đơn vị này nắm giữ 100% vốn điều lệ. Việc xây dựng phương án tăng vốn điều lệ trình cấp có thẩm quyền của SCIC cũng chưa đầy đủ, rõ ràng; người đại diện vốn lập và gửi báo cáo giám sát tài chính chậm.

Một số quy định liên quan đến thẩm quyền, trách nhiệm của UBQLVNN và SCIC chưa thống nhất như việc bổ sung vốn, thoái vốn tại công ty con, công ty liên kết; vốn nhà nước, vốn doanh nghiệp tại các doanh nghiệp do SCIC nhận bàn giao.

]]>